Có những kháng sinh nào thuộc nhóm Macrolide?
Thuốc kháng sinh nhóm Macrolide được sử dụng để điều trị các bệnh nhiễm trùng gây ra bởi vi khuẩn Gram dương, Gram âm, và một số vi khuẩn không điển hình. Vậy có những kháng sinh nào thuộc nhóm Macrolide?
Có những kháng sinh nào thuộc nhóm Macrolide?
Kháng sinh nhóm Macrolide là gì?
Dược sĩ tại các trường Cao đẳng Dược Hà Nội chia sẻ: Các kháng sinh Macrolide thường được phân loại dựa trên cấu trúc hóa học:
- Nhóm có cấu trúc mạch 14 nguyên tử cacbon: Bao gồm Erythromycin, Oleandomycin, Roxithromycin, Clarithromycin, Dirithromycin.
- Nhóm có cấu trúc 15 nguyên tử cacbon: Gồm Azithromycin.
- Nhóm có cấu trúc 16 nguyên tử carbon: Bao gồm Spiramycin và Josamycin.
Erythromycin, là loại Macrolide đầu tiên được phát hiện, xuất phát từ vi khuẩn Saccharopolyspora erythraea (trước đây được gọi là Streptomyces erythreus), một loại vi khuẩn sống trong đất. Các Macrolide khác như Azithromycin, Clarithromycin, và các Macrolide thế hệ 2 được phát triển dựa trên Erythromycin, thường điều chỉnh nhóm thế để mở rộng phổ hoạt tính (hiệu quả trên nhiều chủng vi khuẩn) và cải thiện tính chất dược động học (nâng cao sự ổn định trong môi trường axit), cũng như tăng cường sinh khả dụng (tăng khả năng hấp thu để tăng hiệu suất).
Tác dụng của kháng sinh nhóm Macrolide
Tác dụng của kháng sinh nhóm Macrolide chủ yếu là kìm khuẩn, có khả năng diệt khuẩn ở nồng độ cao hoặc tùy thuộc vào loại vi sinh vật. Các loại kháng sinh Macrolide như Azithromycin, Clarithromycin và Erythromycin đã được FDA chấp thuận để điều trị nhiều loại bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn.
Cụ thể, chúng được sử dụng để điều trị các bệnh nhiễm trùng như viêm phổi, viêm xoang, viêm họng, viêm amidan, nhiễm trùng da không biến chứng và viêm tai giữa ở trẻ nhỏ. Clarithromycin cũng được áp dụng trong việc điều trị nhiễm trùng Helicobacter pylori theo phác đồ bộ ba tiêu chuẩn.
Kháng sinh Macrolide thường được sử dụng trong các trường hợp nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục như nhiễm trùng lậu cầu và Chlamydia. Đặc biệt, chúng là phương pháp điều trị chính cho bệnh viêm phổi không điển hình, thường gây ra bởi Mycoplasma pneumoniae, Legionella và Chlamydia pneumoniae.
Ngoài việc điều trị nhiễm trùng, kháng sinh Macrolide, nhờ vào tính chất kháng viêm và khả năng điều hòa miễn dịch, thường được sử dụng trong phác đồ điều trị bệnh mức độ nặng về đường hô hấp như COPD. Trong nghiên cứu gần đây, Macrolide duy trì đã cho thấy hiệu quả trong việc cải thiện chất lượng cuộc sống và kết quả đo phế dung ở người mắc giãn phế quản do xơ phổi không do nang. Tuy nhiên, các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng liệu pháp này không giảm tỷ lệ nhập viện liên quan đến những cơn trầm trọng của bệnh giãn phế quản.
Dược sĩ tư vấn cần lưu ý rằng quyết định sử dụng kháng sinh nhóm Macrolide hay không nên dựa vào tính nhạy cảm và tình trạng kháng thuốc của vi khuẩn gây bệnh, và việc này đòi hỏi sự chẩn đoán đúng và sử dụng đúng liều lượng.
Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur đào tạo Dược sĩ Cao đẳng Dược
Tác dụng phụ của kháng sinh nhóm Macrolide
Tác dụng phụ của kháng sinh nhóm Macrolide bao gồm rối loạn tiêu hóa, thường kèm theo biểu hiện như buồn nôn, nôn mửa, đau bụng và tiêu chảy, là những tác dụng phụ phổ biến khi sử dụng các loại kháng sinh Macrolide. Đối với hệ vi khuẩn đường ruột, chúng có thể bị ảnh hưởng, dẫn đến mất cân bằng giữa vi khuẩn hữu ích trong ruột người và vi khuẩn gây bệnh, cần phải được kiểm soát.
Tác dụng không mong muốn khác, mặc dù có tỷ lệ thấp, như tác động lên tim mạch, đặc biệt là với Erythromycin, có thể gây rối loạn nhịp tim như xoắn đỉnh, nhịp nhanh thất và rung thất; kéo dài khoảng QT và QTc. Do khả năng chuyển hóa qua gan, kháng sinh nhóm Macrolide có thể liên quan đến độc tính gan như viêm gan và ứ mật.
Ngoài ra, Macrolide cũng có thể gây mất thính lực tạm thời, thường hồi phục sau khi ngừng dùng thuốc. Tình trạng này có thể xảy ra cả ở liều điều trị và trường hợp quá liều.
Dược sĩ Cao đẳng Dược TP.HCM chia sẻ: Các tác dụng phụ khác có thể bao gồm các dạng dị ứng da như ban da, mẩn ngứa. Mặc dù hiếm, nhóm thuốc kháng sinh này cũng có thể gây hội chứng Stevens-Johnson và hoại tử thượng bì nhiễm độc.
Hiện nay, có nhiều loại kháng sinh thuộc nhóm Macrolide được sử dụng để điều trị nhiễm trùng. Dưới đây là một số thuốc đại diện:
- Erythromycin:
- Chủ yếu dùng để điều trị nhiễm trùng đường hô hấp, da, tiết niệu, và bệnh lây truyền qua đường tình dục.
- Thường được sử dụng thay thế cho những người dị ứng với Penicillin.
- Có thể được kết hợp với Neomycin để dự phòng nhiễm khuẩn trong phẫu thuật ruột.
- Azithromycin:
- Có phổ rộng, thấm vào nhiều loại mô và có thời gian bán hủy dài.
- Thường chỉ cần dùng 1 lần trong ngày và 3 ngày trong mỗi đợt điều trị.
- Sử dụng chủ yếu trong nhiễm trùng đường hô hấp, ruột, và sinh dục.
- Clarithromycin:
- Sử dụng rộng rãi, đôi khi phối hợp với các kháng sinh khác và thuốc giảm tiết acid.
- Được chỉ định trong điều trị viêm loét dạ dày – tá tràng có Helicobacter pylori, viêm phổi, và nhiễm trùng tai.
- Spiramycin:
- Chịu được môi trường acid và không độc với gan, thời gian bán hủy dài.
- Thường sử dụng trong nhiễm trùng đường hô hấp, khoang miệng, da, và sinh dục.
- Kết hợp với Metronidazole để điều trị nhiễm khuẩn kỵ khí.
- Spiramycin (đặc biệt):
- Dùng để điều trị nhiễm Toxoplasma ở phụ nữ mang thai để giảm nguy cơ nhiễm trùng ở thai nhi.
- Cũng được sử dụng dự phòng viêm màng não và tái phát thấp tim trong trường hợp dị ứng với Penicillin.
Chú ý rằng việc sử dụng kháng sinh cần được thực hiện theo sự hướng dẫn của bác sĩ để giảm nguy cơ kháng thuốc.
Tổng hợp bởi ytevietnam.edu.vn