Uống rượu được coi là một nét đẹp văn hóa của người Việt. Tuy nhiên, không phải ai cũng thực sự hiểu đúng về văn hóa rượu bia có trách nhiệm.
Văn hóa rượu bia có trách nhiệm là thế nào?
Như chúng ta đã biết, ở mỗi vùng miền đều có những nét văn hóa riêng biệt, thể hiện đặc trưng về phong tục tập quán của mỗi địa phương. Tuy nhiên có một loại văn hóa mà người Việt đều có điểm chung đó là “ văn hóa rượu bia có trách nhiệm”.
Văn hóa rượu bia là gì?
Đây là một nét đẹp văn hóa mà trong đó tất cả mọi người đều phải uống. Uống ở đây là có trách nhiệm với sức khỏe của bản thân, gia đình và xã hội. Những trường hợp quá lạm dụng rượu bia thì không được coi là văn hóa rượu bia chính thống của người Việt.
Văn hoá rượu bia ở phương Tây!
Ở các nước phương Tây, người ta uống được rất nhiều bia rượu, và đa dạng về các loại thức uống.
Ví dụ điển hình là ở Ý, trong bữa cơm người ta chỉ sử dụng rượu hoặc nước. Với những loại đồ uống có cồn hay nước ngọt khác sẽ bị coi là không phù hợp.
Theo bạn văn hóa bia rượu là gì?
Văn hóa rượu bia có trách nhiệm đang bị mờ nhạt!
Hiện nay, văn hóa rượu bia có trách nhiệm của người Việt đang bị mờ nhạt, không còn mang đúng giá trị và ý nghĩa của nó nữa. Một số người đang quá lạm dụng rượu bia, gây ra nhiều tác hại cho sức khỏe.
Đôi với cánh mày râu, nếu quá lạm dụng bia rượu sẽ suy giảm chức năng sinh lý, chất lượng tinh trùng, gây ra vô sinh ở nam giới.
Bên cạnh đó, đa số vụ tai nạn giao thông ở Việt nam nguyên nhân chủ yếu là do bia rượu, khi đó tinh thần không được minh mẫn dẫn tới những hành động mất kiểm soát.
Rượu có tác dụng gây lợi tiểu, tuy nhiên nó cũng làm cho làn da bị mất nước, ảnh hưởng tới làn da và tóc. Việc mất nước khiến da khô và tóc trở nên xơ dễ gãy, đồng thời uống quá nhiều rượu làm cạn kiệt sắt trong cơ thể, khiến làn da bạn xanh sao, thiếu sức sống, tóc dễ gãy rụng hơn.
Ngoài ra, nếu quá lạm dụng rượu bia sẽ ảnh hưởng đến não và thần kinh, uống rượu thường xuyên có liên quan với trầm cảm, lo âu và nhiều vấn đề tinh thần khác. Gần 1/3 các ca tự tử là có liên quan đến rượu.
Nguồn : Y tế Việt Nam