Adrenalin (epinephrin) là một loại thuốc có tác động trực tiếp giống giao cảm, kích thích cả thụ thể alpha và thụ thể beta. Vậy dược lý và cơ chế tác động của Adrenalin là gì?
Dược lý và cơ chế tác động của Adrenalin (Epinephrin)
Dược lý Adrenalin (Epinephrin)
Giảng viên tại các trường Cao đẳng Dược Hà Nội cho biết: Trên hệ tim mạch, Adrenalin có nhiều tác động, bao gồm:
- Tăng tần số và lực bóp cơ tim.
- Tăng thể tích tâm thu và tiêu hao oxy của cơ tim.
- Tăng lưu lượng máu đến mạch vành, cung cấp nhiều máu hơn cho cơ tim.
- Tăng sức cản ngoại vi, dẫn đến tăng huyết áp tâm thu.
Khi Adrenalin được truyền qua tĩnh mạch, nó giảm sức cản ngoại vi và huyết áp tâm trương. Ban đầu, nó có thể làm tăng tần số tim, nhưng sau đó, tần số tim giảm do phản xạ phó giao cảm. Nó cũng có thể làm giảm thể tích huyết tương bằng cách đẩy nước ra khỏi khu vực ngoại bào. Adrenalin còn tăng khả năng kết dính của tiểu cầu và thúc đẩy quá trình đông máu.
Trên hệ thần kinh trung ương, Adrenalin ít được hấp thụ vào và không ảnh hưởng nhiều đến lưu lượng tuần hoàn của não. Nó không gây giãn đồng tử khi tiếp xúc với mắt.
Trên hệ tiêu hóa, thuốc giảm trương lực và bài tiết của ruột, đồng thời tăng lưu lượng máu đến các cơ quản trị tiêu hóa.
Trên hệ tiết niệu – sinh dục, Adrenalin làm giảm lưu lượng máu đến thận mạnh (lên đến 40%), nhưng không ảnh hưởng nhiều đến quá trình lọc của cầu thận. Nó cũng làm giảm trương lực của bàng quang nhưng tăng trương lực của cơ trơn, có thể gây ra các vấn đề về đàm tiểu.
Adrenalin cũng có tác động lên chuyển hóa bao gồm giảm tiết insulin, tăng tiết glucagon, và tăng tốc độ phân giải glycogen, dẫn đến tăng đường huyết. Nó cũng tăng hoạt động của renin và tăng nồng độ acid béo tự do và kali trong huyết tương. Cuối cùng, Adrenalin có thể gây tăng chuyển hóa cơ bản lên đến 20-30% và gây ra sự giãn nở của các mạch máu ở da, có thể dẫn đến sốt.
Hầu hết Adrenalin uống vào sẽ bị phân giải bởi các enzym ở ruột và chuyển hóa qua gan trong lần đầu tiếp xúc. Tác dụng của thuốc sẽ nhanh chóng xuất hiện khi được tiêm bắp hoặc dưới da, trong khi tiêm dưới da có thời gian hoạt động chậm hơn so với tiêm bắp.
Các Dược sĩ tư vấn cho biết: Cho dù được tiêm vào hoặc tiết ra từ tủy thượng thận, hầu hết Adrenalin trong tuần hoàn sẽ bị phân giải nhanh chóng. Điều này xảy ra vì Adrenalin thâm nhập vào tế bào thần kinh, trải qua quá trình khuếch tán và chịu tác động của các enzym phân giải, chẳng hạn như catechol-O-methyltransferase (COMT) và monoamine oxidase (MAO). Các sản phẩm chuyển hóa cuối cùng được tiết ra qua nước tiểu.
Học Cao đẳng Dược tại Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur là lựa chọn hoàn hảo
Liều lượng và cách sử dụng Adrenalin
Liều lượng của Adrenalin phải được điều chỉnh dựa trên trọng lượng và đáp ứng cụ thể của từng bệnh nhân. Dưới đây là một số hướng dẫn tham khảo của các dược sĩ Cao đẳng Dược TP.HCM về liều dùng cho các trường hợp cụ thể:
Choáng phản vệ: Adrenalin là thuốc ưu tiên được lựa chọn để điều trị choáng phản vệ. Liều ban đầu cho người lớn là tiêm dưới da hoặc tiêm bắp với liều từ 0,3 đến 0,5 ml dung dịch có nồng độ 1:1000. Liều này có thể được tiêm lại sau mỗi 20 hoặc 30 phút. Nếu việc tiêm dưới da hoặc tiêm bắp không hiệu quả, tiêm tĩnh mạch với liều từ 3 đến 5 ml dung dịch có nồng độ 1:10000, các liều tiêm cách nhau từ 5 đến 10 phút. Trong trường hợp trụy tim mạch nặng, tiêm trực tiếp Adrenalin vào tim. Nếu có sốc, khó thở nặng hoặc cản trở đường hô hấp, nên sử dụng đường tiêm tĩnh mạch.
Ngừng tim: Adrenalin là thuốc ưu tiên để điều trị ngừng tim. Liều thường được khuyến nghị là tiêm tĩnh mạch với liều từ 0,5 đến 1 mg, cách nhau từ 3 đến 5 phút. Trong trường hợp người bệnh trải qua ngừng tim trước khi đến bệnh viện, có thể cần phải sử dụng liều cao hơn nhiều (lên đến 5 mg tiêm tĩnh mạch). Adrenalin có thể được truyền liên tục (từ 0,2 đến 0,6 mg/phút) nếu cần. Có thể tiêm trực tiếp vào tim với liều từ 0,1 đến 1,0 mg Adrenalin pha trong vài ml dung dịch muối hoặc dung dịch glucose đẳng trương. Tiêm Adrenalin vào tĩnh mạch, khí quản hoặc tim có hiệu quả tốt trong điều trị ngừng tim do rung thất. Adrenalin chủ yếu được sử dụng khi điều trị rung thất bằng sốc điện thất bại. Liều khuyến nghị cho trẻ em là từ 7 đến 27 microgam/kg (trung bình là 10 microgam/kg).
Sốc nhiễm khuẩn: Trong trường hợp điều trị sốc nhiễm khuẩn nặng bằng cách truyền dịch, truyền dopamin một mình hoặc kết hợp với dobutamin không hiệu quả, tiêm Adrenalin vào tĩnh mạch (từ 0,5 đến 1 microgam/kg/phút) có thể mang lại kết quả tốt.
Cơn hen phế quản nặng: Adrenalin là thuốc thường được sử dụng để điều trị cơn hen cấp, do nó có tác dụng nhanh và giảm phù nề phế quản, góp phần cải thiện dung tích sống. Adrenalin tiêm dưới da thường có hiệu quả ngay tức khắc, nhưng do tác dụng ngắn, cần tiêm lại sau mỗi 20 phút. Tiêm nhiều liều Adrenalin dưới da có thể duy trì hiệu quả của liều tiêm đầu tiên mà không tích lũy thuốc. Liều 0,5 mg Adrenalin tiêm dưới da được xem là liều tối ưu để điều trị cơn hen cấp tính hiệu quả, với ít ảnh hưởng đến hệ tim mạch. Không nên coi tăng huyết áp và nhịp tim nhanh là chống chỉ định khi sử dụng liều Adrenalin này, trừ khi người bệnh đã từng bị tăng huyết áp hoặc bệnh tim trước đây.
Thở khò khè ở trẻ nhỏ: Adrenalin tiêm dưới da hiệu quả để điều hòa cơn khó thở rít ở trẻ dưới 2 tuổi. Adrenalin (1 mg/1 ml) được tiêm với liều 0,01 ml/kg.
Đục Nhân Mắt: Khi điều trị đục nhân mắt, dung dịch Adrenalin 1:1.000.000 có tác dụng giữ cho đồng tử duy trì giãn mở an toàn trong quá trình phẫu thuật.
*Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo!
Nguồn: ytevietnam.edu.vn tổng hợp